TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI: QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN

 

Trọng tài thương mại: Quá trình hội nhập và phát triển

Nhận thức được vai trò và ý nghĩa của hoạt động nghiên cứu khoa học trong đội ngũ học sinh, sinh viên và giảng viên trẻ, Đại học Quốc gia TP.HCM đã tổ chức Hội nghị Khoa học trẻ Lần I Năm 2012 vào ngày 12 và 13 tháng 10 năm 2012, thu hút 200 bài báo khoa học thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu chuyên ngành. Nhóm sinh viên (ĐH Luật TP.HCM & ĐH Kinh tế Luật TP.HCM ) thực tập tại Công ty Luật Song Nguyên đã mạnh dạn đăng ký tham gia đề tài “Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại trên hành trình hội nhập và phát triển”

Buổi phản biện đã diễn ra thành công với sự đánh giá cao từ phía Hội đồng khoa học. Cùng với 15 đề tài khác của phân ban Kinh tế -Luật -Khoa học quản lý, đề tài được chọn in toàn văn trong Kỷ yếu Hội nghị Khoa học trẻ Thành đoàn TP.HCM. Bài viết dưới đây được trích từ nội dung nghiên cứu khảo sát và tóm tắt một số vấn đề chính của đề tài, đặc biệt chú trọng về công tác giảng dạy pháp luật trọng tài thương mại, đã thu hút được nhiều ý kiến tham gia của các đại biểu tại diễn đàn Hội nghị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “ Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”, hy vọng đây sẽ là hành trang kinh nghiệm và động lực hỗ trợ các bạn sinh viên luật tự tin trở thành các luật sư giỏi trong tương lai.

Lịch sử phát triển Trọng tài thương mại trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, trọng tài thương mại, với tư cách là một cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài toà án, đã và đang góp phần không nhỏ vào sự ổn định của hoạt động thương mại trên thế giới. Ở nước ta, tiến trình hình thành và phát triển của trọng tài thương mại được thể hiện qua ba giai đoạn chủ yếu: giai đoạn sơ khai (trước năm 2003), giai đoạn chuyển tiếp (năm 2003 – 2010) và giai đoạn hội nhập (năm 2010 – nay).

So với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới, trọng tài thương mại Việt Nam trải qua quá trình phát triển đặc thù. Mặc dù chế định này du nhập vào hệ thống pháp luật nước ta từ cuối thế kỷ XIX, do bối cảnh xã hội đương thời không thuận lợi nên về cơ bản, trọng tài không có tác động đáng kể đến xã hội Việt Nam trong giai đoạn này. Tuy nhiên, những sự kiện lịch sử diễn ra giữa thế kỷ XX đã làm thay đổi vận mệnh quốc gia, trong đó có hệ thống pháp luật. Cùng với đó, các tổ chức trọng tài kinh tế được hình thành. Ngoài ra, còn song song tồn tại trọng tài phi chính phủ với hai cơ quan là Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải Việt Nam,  sau này được sáp nhập thành Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam theo Quyết định số 204/TTg ngày 28/03/1993 của Thủ tướng Chính phủ. Năm 1995, Việt Nam gia nhập Công ước New York, đánh dấu sự cải thiện đáng kể môi trường pháp lý nhằm tạo thuận lợi trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong giai đoạn sơ khai, không có một luật về trọng tài thống nhất điều chỉnh hệ thống trọng tài trong nước và trọng tài quốc tế. Thêm vào đó, quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài không được bảo đảm thi hành. Vì thế, mô hình trọng tài thương mại chưa thực sự đạt được những thành tựu đáng kể trên hành trình tiếp cận những chuẩn mực của trọng tài thương mại hiện đại.

Ngày 25/02/2003, U ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại, thể hiện nỗ lực hội nhập to lớn của Việt Nam cũng như đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp trong quá trình phát triển của pháp luật trọng tài ở nước ta. Pháp lệnh mang ý nghĩa quan trọng về mặt điều chỉnh pháp luật, là nền tảng pháp lý cho trọng tài Việt Nam tiếp cận, hoà nhập với xu hướng chung của nền tài phán trọng tài quốc tế. Tiêu biểu, Pháp lệnh đã xác định phạm vi cụ thể thẩm quyền của trọng tài bằng cách liệt kê các loại việc trọng tài được giải quyết, đưa ra cơ chế xác định hiệu lực pháp lý của thoả thuận trọng tài, quy định chặt chẽ quy trình tố tụng, xác định rõ những nguyên tắc quan trọng nhất phù hợp với thông lệ trọng tài trên thế giới cũng như quy định sự hỗ trợ của toà án đối với trọng tài và xác lập giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài. Tuy có nhiều điểm tiến bộ, qua hơn sáu năm áp dụng và cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội, một số quy định của Pháp lệnh đã bộc lộ bất cập và không còn phù hợp với tình hình mới như việc xác định không rõ ràng phạm vi giải quyết tranh chấp và chủ thể được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nhiều thiếu sót trong chế định về tho thuận trọng tài, vai trò hỗ trợ mờ nhạt của toà án, căn cứ hu quyết định trọng tài quá rộng. Mặc dù vậy, Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng mang tính chuyển tiếp trong tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại.

Bước vào giai đoạn mới, Luật Trọng tài thương mại 2010 được Quốc hội thông qua ngày 17/06/2010 và chính thức có hiệu lực ngày 01/01/2011, gồm 13 chương và 82 điều, thể hiện sự đột phá của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam, cụ thể như đã khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, giới hạn các tình huống làm thoả thuận trọng tài vô hiệu đồng thời quy định hướng giải quyết khi tho thuận trọng tài không rõ ràng, lần đầu tiên có điều khoản bảo vệ người tiêu dùng trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, cho phép trọng tài viên là người nước ngoài cũng như nội luật hoá các cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ trọng tài. Ngoài ra, luật cũng xác định rõ mối quan hệ giữa trọng tài với toà án trong quá trình giải quyết tranh chấp, mở rộng thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng. Từ đó, Luật Trọng tài thương mại 2010 bảo đảm sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành, nâng cao khả năng tính khả thi trong thực tế và tiến đến gần hơn các tiêu chuẩn quốc tế.

Nhờ những cải cách trên, trong những năm qua, số vụ tranh chấp thương mại được giải quyết bằng trọng tài mà tiêu biểu là tại VIAC tăng liên tục, từ 18 vụ / năm trong giai đoạn 1993 – 2003 lên 42 vụ / năm trong giai đoạn 2004 – 2010. Đội ngũ trọng tài viên cũng không ngừng được mở rộng. Sáu tháng đầu năm 2012, VIAC đã kết nạp thêm 37 trọng tài viên, trong đó có 12 trọng tài viên nước ngoài, nâng tổng số trọng tài viên của Trung tâm lên 151 người, tăng gần 30% so với năm 2009. Tuy nhiên, bức tranh về trọng tài thương mại tại Việt Nam chưa thật sự khởi sắc khi phương thức này chỉ giải quyết khoảng 11% tổng số tranh chấp thương mại. Số vụ tranh chấp mà VIAC thụ lý trong năm 2011 là 83, vẫn rất khiêm tốn nếu so với 188 vụ mà Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) giải quyết hay như U ban trọng tài Bắc Kinh là 1.500 vụ. 

Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, trọng tài thương mại chưa nhận được sự đánh giá cao từ giới doanh nhân Việt Nam. Theo khảo sát của Bộ Tư pháp, phương thức giải quyết tranh chấp mà họ ưu tiên là thương lượng (57,8%), Toà án (46,8%), hoà giải (22,8%) và cuối cùng là trọng tài (16,9%). Thậm chí, 84% số doanh nghiệp được hỏi chưa bao giờ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này trái ngược với tỷ lệ 68% doanh nghiệp có chính sách giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, theo khảo sát toàn cầu của trường Đại học Luân Đôn kết hợp với công ty luật White & Case. Đặc biệt, trong hợp đồng thương mại nội địa, Toà án thường là cơ quan giải quyết tranh chấp. Điều này được giải thích là do hiệu lực thi hành phán quyết trọng tài thấp (61,4%), doanh nghiệp chưa tin tưởng trọng tài (68,6%), thậm chí chưa biết đến phương thức này (74,3%).

 Bên cạnh những hạn chế trong tâm lý và nhận thức của doanh nghiệp, hệ thống tổ chức trọng tài thương mại hiện nay còn khá thưa thớt với chưa đến mười trung tâm trọng tài và không phải trung tâm nào cũng hoạt động hiệu quả. Đội ngũ trọng tài viên nước ta với hơn 200 người cũng chưa thực sự phát triển, đáng nói là có đến 30% trọng tài viên chưa từng tham gia giải quyết một vụ tranh chấp thương mại nào. Thêm vào đó, sự hỗ trợ của toà án và cơ quan thi hành án trên thực tế còn khá khiêm tốn do hoạt động trọng tài quá ít (84,3%), toà án không có thời gian cho hoạt động liên quan đến trọng tài (43,1%), trọng tài viên chưa yêu cầu toà án hỗ trợ (43,1%) và quy định của pháp luật chưa phù hợp (35,3%), … Cuối cùng, mặc dù giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền khoa học pháp lý nhưng dường như cộng đồng học thuật, đặc biệt là giới sinh viên, chưa thực sự đồng hành cùng trọng tài thương mại.

Trong cuộc khảo sát 300 sinh viên luật đang học tập tại trường Đại học Kinh tế – Luật và trường Đại học Luật TP.HCM được nhóm tác giả thực hiện vào tháng 07 và 08 năm 2012, có đến 22,7% sinh viên không hề biết đến mô hình này. Với nhóm còn lại, hiểu biết về trọng tài thương mại cũng chưa thật sâu sắc khi trung bình mỗi sinh viên chỉ trả lời đúng 2,24 trong tổng số 4 câu hỏi đặt ra. Chất lượng giảng dạy pháp luật trọng tài thương mại, theo đánh giá của chính sinh viên, cũng còn khá hạn chế khi chỉ đạt 2,63 điểm trên 5. Đây sẽ là khó khăn cần khắc phục trên chặng đường hướng đến một nền trọng tài Việt Nam tiên tiến và bền vững.

Như vậy, mặc dù Việt Nam đã xây dựng thành công đạo luật riêng về trọng tài thương mại, đây chỉ là bước khởi đầu. Chuyển tải thành công pháp luật trọng tài vào cuộc sống, đặc biệt là ở những nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, là nhiệm vụ không hề dễ dàng. Điều đó phụ thuộc rất lớn vào nỗ lực và quyết tâm của toàn xã hội.

Quốc tế hoá trọng tài thương mại Việt Nam từ góc nhìn sinh viên luật

Hoạt động thương mại luôn ẩn chứa mâu thuẫn trong quá trình mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Để đảm bảo cho sự ổn định và phát triển lành mạnh của môi trường kinh doanh, cần kiến tạo một phương thức giải quyết tranh chấp ngoài toà án thích hợp, đó là trọng tài thương mại. Nhưng mô hình này chỉ có thể phát triển trong nền kinh tế thị trường. Ngược lại, sẽ không thể có nền kinh tế thị trường đúng nghĩa nếu không có hệ thống trọng tài độc lập. Hơn nữa, hoạt động trọng tài thương mại phụ thuộc chặt chẽ vào trình độ phát triển của nền kinh tế. Đó là lý do trọng tài ở các nước có nền kinh tế khác nhau là khác nhau, thậm chí trong các giai đoạn phát triển của cùng một nền kinh tế thì hoạt động trọng tài cũng không giống nhau.

Ở Việt Nam, mô hình này chỉ tồn tại từ khi thực hiện công cuộc đổi mới. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là động lực quan trọng cho những cải cách về hành lang pháp lý, trong đó có quá trình hài  hoá và quốc tế hoá pháp luật trọng tài thông qua việc tiếp nhận Luật Mẫu UNCITRAL. Pháp luật là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, do vậy nó phải dựa trên những quy luật khách quan của quan hệ xã hội mà chúng hướng đến điều chỉnh. Quy luật về sự chi phối của trình độ tổ chức kinh tế đối với sự phát triển của pháp luật nói chung và pháp luật trọng tài nói riêng là chìa khoá giúp chúng ta đề ra những giải pháp đúng đắn trong việc phát triển mô hình trọng tài thương mại tại Việt Nam. 

Bên cạnh việc ban hành hệ thống văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh và khuyến khích sự phát triển của trọng tài thương mại, Nhà nước cũng cần có hành động cụ thể nhằm hỗ trợ cơ chế tài phán này. Tiêu biểu như ở Trung Quốc, các U ban trọng tài được cung cấp trụ sở cùng phương tiện làm việc trong thời gian đầu trước khi tự hoạt động. Nhiều nước châu Á khác như Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Philippines cũng hỗ trợ hoạt động trọng tài khá hiệu quả. Ngoài ra, Nhà nước cũng có thể giúp các trung tâm trọng tài giảm nhẹ gánh nặng tài chính bằng cách miễn thuế cho họ. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài cũng rất cần đến cơ chế phối hợp từ các cơ quan nhà nước, mà trực tiếp là hệ thống toà án, đặc biệt trong việc cưỡng chế thi hành phán quyết cũng như công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Mức độ hỗ trợ của Nhà nước đối với trọng tài là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của mô hình này. Vì vậy, ngoài việc xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp, cần có những chính sách cụ thể nhằm khuyến khích và thúc đẩy quá trình hoạt động của trọng tài.

Hiệu quả hoạt động của trọng tài còn phụ thuộc vào thái độ của các chủ thể kinh doanh. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ về vấn đề này là bài học quý báu dành cho Việt Nam. Những buổi tiệc danh dự, hàng trăm nghìn xuất bản phẩm cùng hàng nghìn buổi hội thảo và đặc biệt là “Tuần trọng tài” được tổ chức năm 1923 đã kết nối chặt chẽ trọng tài với doanh nhân. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật trọng tài cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ chắc chắn sẽ khiến doanh nghiệp am hiểu sâu sắc hơn bản chất và ưu thế của trọng tài thương mại, từ đó tạo điều kiện cho cơ chế này ngày một phát triển.

Muốn khẳng định năng lực và tạo niềm tin cho khách hàng, mỗi trung tâm trọng tài phải không ngừng bồi dưỡng đội ngũ trọng tài viên, không chỉ về số lượng mà cả chất lượng. Ngoài ra, dựa trên kinh nghiệm của Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ, cơ sở pháp lý của Luật Trọng tài thương mại 2010 và pháp luật về hội nghề nghiệp, Hiệp hội Trọng tài Thương mại Việt Nam sẽ sớm được thành lập, hỗ trợ sự phát triển của trọng tài thương mại tại Việt Nam.

Công tác nghiên cứu và giảng dạy pháp luật trọng tài là nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của mô hình này. Vì thế, cần bồi dưỡng năng lực cũng như định hướng cho sinh viên, đặc biệt là sinh viên luật và kinh tế, về những vấn đề cơ bản trong pháp luật trọng tài. Tại khảo sát của chúng tôi, cho thấy đây là nhu cầu thực tế khi 87,4% sinh viên cho rằng việc giảng dạy mô hình trọng tài thương mại là cần thiết hoặc rất cần thiết và 73,3% sẵn sàng bỏ chi phí để theo học về mô hình này. Bên cạnh đó, những giải pháp khác bao gồm giảng dạy pháp luật trọng tài như một môn tự chọn (47,7%), giới thiệu nghề trọng tài viên (49,0%), tổ chức các cuộc thi liên quan đến mô hình này (56,3%), tổ chức hội thảo, giao lưu (57,3%) và cho sinh viên thực tập tại các trung tâm trọng tài (65,3%). Con số trên một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc giáo dục kiến thức về trọng tài thương mại cũng như áp dụng chúng vào thực tế.

Trong suốt hơn một thế kỷ hình thành và phát triển, mô hình trọng tài thương mại Việt Nam đã có những bước thăng trầm cùng dòng chảy lịch sử nước nhà. Bước sang thế kỷ XXI, với sự phát triển của thể chế kinh tế, pháp luật và xã hội, chúng ta có cơ sở để tin rằng trọng tài thương mại sẽ thực hiện thành công quá trình tiêu chuẩn hoá và quốc tế hoá nhằm vươn lên những tầm cao mới, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cải cách tư pháp của nước nhà.

Thảo Vy- Đức Tâm- Đức Thảo- Tường Vân

Tin tức khác


   Trang sau >>